Chủ đề nghệ thuật Utagawa Hiroshige

Phải mãi đến những năm 1829–1830, Hiroshige mới bắt đầu sáng tác những bản họa phong cảnh nổi tiếng cho tới hiện nay, chẳng hạn như loạt Tám cảnh Ōmi.[15] Các bản họa giữa chim và hoa cũng được tạo ra với số lượng ngày các nhiều trong thời gian này.[11] Khoảng năm 1831, loạt Mười danh thắng Đông Đô của ông xuất hiện, dường như chúng chịu ảnh hưởng từ Hokusai, người có loạt bản họa phong cảnh nổi tiếng là Ba mươi sáu cảnh Núi Phú Sĩ cũng được công bố gần thời gian đó.[16]

Được mời tham dự một cuộc diễu binh tới Kyoto vào năm 1832, đã tạo cho Hiroshige cơ hội được du hành và trải nghiệm dọc theo tuyến đường huyết mạch Tōkaidō, nối tiền giữa hai thủ đô lúc đó là KyotoEdo (Tokyo hiện tại). Ông phác họa khung cảnh dọc trên đường đi, để rồi khi trở về Edo, ông đã sản xuất loạt bản họa Năm mươi ba trạm nghỉ của Tōkaidō, trong đó bao gồm cả một số tác phẩm nổi tiếng của ông. [16] Hiroshige gặt hái được thành công của loạt tranh này tương tự như cách đã làm với các tác phẩm khác, chẳng hạn như Bản Minh Họa Các Đia Danh tại Naniwa (1834), Các Địa Danh Nổi Tiếng tại Kyoto (1835) và Tám Cảnh Ōmi (1834). Vì chưa bao giờ đặt chân đến phía tây của Kyoto, nên các minh họa của ông về Naniwa (Osaka hiện đại) và tỉnh Ōmi được dựa trên những tài liệu được tìm thấy trong sách và tranh vẽ. [17]

Người vợ đầu của Hiroshige đã giúp tài trợ các chuyến đi của ông tới những địa danh du lịch, một số lần bà đã phải bán một số quần áo và những chiếc lược trang trí của mình. Bà mất vào tháng 10 năm 1838, Hiroshige sau đó tái hôn với Oyasu,[lower-alpha 3] là cô con gái mười sáu tuổi của một nông dân tên là Kaemon tại tỉnh Tōtōmi.[18] Khoảng năm 1838, Hiroshige xuất bản hai loạt tác phẩm mang tên Tám cảnh thiên nhiên tại Edo, mỗi bản in kèm theo một bài thơ kyōka hóm hỉnh. Sáu mươi chín trạm nghỉ của Kiso Kaidō được in trong khoảng những năm 1835 đến 1842, đồng sản xuất với Keisai Eisen, trong đó gồm bốn mươi sáu bản họa của Hiroshige trên tổng số bảy mươi tác phẩm.[19] Hiroshige cũng thực hiện 118 bản cho loạt Trăm danh thắng Edo [20] vào thập kỷ cuối đời, bắt đầu từ năm 1848. [21]

Hiroshige sống trong doanh trại cho đến năm 43 tuổi. Cha ông Gen'emon và vợ qua đời vào năm 1809, khi Hiroshige 12 tuổi, chỉ vài tháng sau khi truyền lại chức vụ này cho ông. Mặc dù thời gian là một lính cứu hỏa của ông khá ngắn, ông vẫn không bao giờ trốn tránh trách nhiệm này, ngay cả khi ông theo học nghệ thuật tại xưởng của Utagawa Toyohiro. Cuối cùng, ông đã chuyển vị trí lính cứu hỏa của mình cho anh trai, Tetsuzo, vào năm 1823, người này cũng đã lần lượt truyền lại nhiệm vụ cho con trai của Hiroshige vào năm 1832.

Cảnh xoáy nước tại Awa triptych, 1857, một phần của loạt tác phẩm "Tuyết, Mặt trăng và Hoa"

Học trò của Hiroshige

Hiroshige II là một họa sĩ in trẻ tuổi, Chinpei Suzuki, người đã kết hôn với con gái của Hiroshige, Otatsu. Ông có nghệ danh "Shigenobu". Hiroshige có ý định biến Shigenobu thành người thừa kế của mình, Shigenobu đã kế tục nghệ danh "Hiroshige" sau cái chết của người thầy vào năm 1858, do đó ngày nay còn được gọi là Hiroshige II. Tuy nhiên, cuộc hôn nhân với Otatsu gặp nhiều trắc trở, đến năm 1865 họ ly thân. Otatsu đã tái hôn với một học trò cũ khác của Hiroshige, Shigemasa, người đã hợp nhất vào dòng dõi gia đình và ngày nay được gọi là Hiroshige III. Cả Hiroshige II và Hiroshige III hướng theo những phong cách đặc biệt dựa trên cơ sở của Hiroshige, nhưng không đạt được đến được thành công và nhận được công nhận giống như người thầy của họ. Các học trò khác của Hiroshige I bao gồm Utagawa Shigemaru, Utagawa ShigekiyoUtagawa Hirokage .

  • Tác phẩm của học trò Hiroshige
  • Suō Iwakuni, Hiroshige II, 1859
  • Teppōzu Akashi-bashi, Hiroshige III, 1870
  • Tsumagoi Gomizaka no kei, Hirokage, 1859